Dù có thể là ngành dệt may hiện nay đang chỉ mang lại những đồng lương khiêm tốn cho rất nhiều công nhân nhưng bạn hãy thử tưởng tượng nếu như ngành dệt may ở Việt Nam không được phát triển như bây giờ thì khoảng vài triệu nhân lực đang hoạt động trong ngành này sẽ đi về đâu, làm gì và sẽ sống ra sao?
Lâu nay chúng ta vẫn thường được nghe rất nhiều những lời phàn nàn, những lời cảnh báo của rất nhiều người trong và ngoài ngành rằng ngành dệt may chỉ mang lại giá trị gia tăng khá thấp, do nó chủ yếu dựa vào gia công với tiền đồng lương rẻ mạt, nên cho dù Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) có trở thành hiện thực đi chăng nữa thì ngành dệt may của Việt Nam cũng khó mà có thể tận dụng được cơ hội mà hiệp định TPP mang lại.
Đầu tiên, chúng ta cần phải thừa nhận ngay một điều rằng một bộ phận rất lớn trong ngành dệt may vẫn thường dựa trên việc gia công, sử dụng rất nhiều lao động cùng với tiền lương chỉ vào khoảng vài triệu đồng/người mỗi tháng, nên quả thật là giá trị gia tăng cho toàn ngành này ở Việt Nam là còn thấp, đặc biệt là so với những phân khúc khác như là khâu thiết kế, phân phối và khâu bán lẻ đa phần do người nước ngoài đang nắm giữ.
Nhưng nói gì đi chăng nữa thì chúng ta cũng phải nhìn nhận một cách thật công bằng rằng giá trị gia tăng của ngành dệt may không chỉ đứng dừng lại ở đồng tiền lương, và chỉ cho công nhân ở trong ngành dệt may. Ngành dệt may đang phát triển còn mang đến được nhiều cơ hội phát triển khác lan truyền như là những ngành sản xuất các phụ kiện, sản xuất bao bì, vận tải, việc phân phối, dịch vụ, vấn đề năng lượng, xây dựng v.v… Đến lượt chúng, những ngành này sẽ lại lôi kéo cùng theo sự phát triển của rất nhiều những ngành khác. Cứ như thế, các ngành liên quan cũng sẽ thúc đẩy nhau để cùng tăng trưởng, tạo ra các giá trị gia tăng vượt trội hơn là nếu chỉ như nhìn chằm chằm vào từng ngành riêng lẻ và tự thân nó phát triển.
Thứ hai, chúng ta cũng không thể bỏ qua sự đóng góp của ngành dệt may từ một vấn đề hết sức là hiển nhiên nhưng mà hầu như không một ai nghĩ đến khi tiến hành bàn luận về sự đóng góp của cả ngành dệt may. Đó chính là ngành này đã và đang mang lại cho ngân sách một khoản thu không hề nhỏ chút nào dưới dạng thuế nhập khẩu các nguyên vật liệu, thuế giá trị gia tăng, nguồn thuế thu nhập cá nhân, thuế tại các doanh nghiệp, các loại phí theo các quy định. Lấy ví dụ về nguồn thuế nhập khẩu, thuế suất ưu đãi để nhập khẩu vải bông là khoảng 12%; một số loại vải nhập từ bên Trung Quốc còn có thuế suất cao hơn, lên đến khoảng 15%-20%. Do vậy, nếu như tính sơ sơ thì riêng về tiền thuế, phí các loại phải nộp vào ngân sách thì nó đã lên đến cả chục USD hoặc là hơn tính cho một chiếc áo sơ mi có giá bán ở bên nước ngoài là 100 USD.
Cùng với một lý do như vậy, tiền thuế và tiền phí thu được từ các ngành “ăn theo” nói trên cũng nên và nó cần được tính vào sự đóng góp của ngành dệt may cho nền kinh tế của Việt Nam.
Thứ ba, ngành dệt may cũng là một trong những nền tảng ban đầu và cần thiết để có thể tạo ra được bước chuyển biến bên trong cơ cấu kinh tế của hầu như là bất cứ một nền kinh tế đang phát triển nào, dư thừa nhiều lao động cùng với trình độ và tay nghề còn thấp, giá rẻ như ở Việt Nam trong những thập kỷ vừa qua. Ngay cả những “con rồng của châu Á” như là Hong Kong, Đài Loan cũng từng có một ngành dệt may phát triển khá thịnh vượng trước khi đi nó vào suy vong vì giá của nhân công ngày càng tăng lên, tuyển công nhân khó đến mức chi phí quá đắt đỏ, phi kinh tế theo đà đang tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế của những vùng lãnh thổ này, nên buộc họ phải “di dời” ngành này ra các nước đang ở trình độ phát triển kém hơn, có chi phí nhân công được cho là rẻ hơn.
Với nước Việt Nam, dù có thể là ngành dệt may hiện nay đang chỉ mang lại những đồng lương khiêm tốn cho rất nhiều công nhân nhưng bạn hãy thử tưởng tượng nếu như ngành dệt may ở Việt Nam không được phát triển như bây giờ thì khoảng vài triệu nhân lực đang hoạt động trong ngành này sẽ đi về đâu, làm gì và sẽ sống ra sao?
Và cho dù nó có là ngành chỉ mang lại giá trị gia tăng thấp thì ngành dệt may cũng vẫn đang là “mảnh đất hứa”, một chiến trường cạnh tranh khá khốc liệt với rất nhiều nhiều quốc gia đang phát triển như Việt Nam,cả Campuchia, Bangladesh, cả Sri Lanka, Pakistan, và Myanmar nữa… Không có mấy nước đang phát triển lại đang coi rẻ, từ chối cơ hội để phát triển của ngành này nếu như có. Bằng chứng thực tế chính là nhiều doanh nghiệp dệt may của Việt Nam đang lên tiếng và lo ngại về việc mất các đơn đặt hàng vào tay của các doanh nghiệp ở nước Campuchia và Bangladesh với giá nhân công rẻ hơn nước mình, trong khi những người ngoài cuộc thì lại cứ như là muốn bàn ra về tương lai của chính ngành này ở Việt Nam.
Thứ tư, ta cũng có thể coi TPP chính là một chất xúc tác mạnh để thúc đẩy sự phát triển của cả ngành dệt may ở Việt Nam. TPP sẽ mang đến hiệu quả giảm thuế nhập khẩu sản phẩm về 0% vào thị trường chính là nướcMỹ. Nhờ việc thuế giảm về khoảng 0%, sức cạnh tranh của các sản phẩm dệt may của Việt Nam so với các đối thủ hiện tại như là Campuchia, Bangladesh và kể cả là Trung Quốc tự nhiên cũng tăng vọt chỉ sau một đêm (khi mà TPP có hiệu lực).
Chưa hết, TPP sẽ còn thúc đẩy được sự phát triển công nghiệp thượng nguồn trong ngành dệt may cùng với quy tắc “Từ sợi trở đi”. Đương nhiên là một bộ phận rất lớn ngành công nghiệp thượng nguồn này sẽ là bước đầu (như hiện tại) sẽ nằm ở trong tay của doanh nghiệp FDI, từ bên Trung Quốc, Hong Kong, Đài Loan, bên Malaysia hay là Mỹ nhưng đó sẽ không phải là một điều xấu hổ vì nó chính là hiển nhiên như là với hầu hết mọi ngành công nghiệp khác ở trong giai đoạn nền kinh tế đang bắt đầu chuyển mình, đang bắt đầu phát triển, khi mà các nhà đầu tư trong nước vẫn chưa đủ tiềm lực về tài chính, năng lực về quản lý và cả công nghệ để có thể cạnh tranh được cùng với nhà đầu tư nước ngoài.
Nói cách khác, ngành dệt may của Việt Nam đã và đang đóng góp được nhiều hơn, và càng ngày càng có tầm quan trọng lớn hơn với những gì mà nhiều người đã và đang nhìn nhận. Vai trò và đóng góp này đang được kỳ vọng là sẽ ở mức cao hơn nhiều khi TPP mà có hiệu lực.